Nguyễn Ngọc Tư
Cánh Đồng
Bất tận
Phần
3
Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua
những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có
phải tôi vừa ngang qua má đó không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má
nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai
này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn.
Má tôi
hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàna(bông mua
ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn. Dần
dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước
nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp
lánh cả khúc sông. Má tôi nguýt dài :
- Dóc…
Người đàn ông cười
hề hề, thề “ Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc” (Ngay lập tức,
Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…”, và
bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm
lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại hồi đó má ổng mới
sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum”).
Cho dù
người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít
tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê
tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi
bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi
dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già
khi ngang qua bồ lúa vừa hót bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ
mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau
đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã
chồng cho con cái.
Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má
tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, “Cô Hai cứ coi đi, không
mua cũng được – rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử
những khúc vải rực rỡ lên người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà
khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời”. Má bỗng nhiên thắc thỏm :
- Dóc…
Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông
bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân
vậy hai đứa ?”. Tôi nói, “Má lạ quá hà, nhìn không ra”. Má mừng quýnh,
“Thiệt hả ?”. Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại
mừng ?
Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía
má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy,
siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía
mặt trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con
chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má
tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà
Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không
có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó,
giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.
Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa
chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên
chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm
những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.
Đó là hình ảnh ấn
tượng cuối cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ
bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần giường ngủ,
và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là
những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt
một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.
Suốt nhiều năm sau
đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức
hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa
đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải nhớ tới khúc
má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má
cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…
Má có rất nhiều
hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp,
nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền, má thảng
thốt hỏi : “Mèn ơi, mắt con sao vậy ?. Tôi trả lời, day day chậm rãi,
“Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa”.
Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề.
Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả.
Và tôi luôn nghĩ rằng
chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.
Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói
với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ
mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi,
khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe
vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người bàn ra tán vào, xôn xao, bắt
tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc biệt mang tính
dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm tra
trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ
kêu lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ
như nhà nào bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa
thiệt kỳ, là tui nghi rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly
kỳ...
- Hồi chiều má con không nấu cơm…
- Vậy sao ?
- Má con
nằm trên giường thở dài…
- Vậy hả ? Thở ra làm sao ?
Tôi hết
biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như
nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi.
Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông
bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má
cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả
khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.
Mọi người không
thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa, thì ra cũng đã có điềm báo
trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu tiên, ngay lần gặp đầu
tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi chèo ghe đi ngang,
đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại. Cha hỏi, cô
về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, “tôi cũng
không biết về đâu”. Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và
trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau
đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ
quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là
không, nên bây giờ mới khóc hận, cười đau.
Tới đây thì hết chuyện
nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào
trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những con đường xóm. Tôi và
Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút trên những ngọn
tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi qua nhà
thím ngủ.
Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay “Vợ Út Vũ bỏ
nhà. Theo trai” Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy
bà bạn hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên
đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng
ra vẻ giận, “Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội ?”. Có vẻ khó tin, khi
một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm
sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha
tuột xuống đất, run rẩy…
Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và
khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má
còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má
đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng
húm hỏi “Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh ?”.
Coi
kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó
cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ,
chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.
Cha đem tất cả đồ đạc của
má đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt,
những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành những giọt tro. Cha nhìn
ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ
mới lạ.
Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay
quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của
những thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có
người vỗ đùi cái đét, “Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi
thể nào thằng chả cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy,
các cha”.
Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má
tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín,
những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp
tục lang thang.
Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh
đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi
sống đời du mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự
khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy đứa nhỏ đâu?”.
Để cha phải buột lòng nói “chết rồi !” và cười lạt khi nghe người nào đó
kêu lên : “Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn”.
Nguyễn Ngọc Tư
Cánh Đồng
Bất tận
Phần
4
Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng.
Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng
ập xuống. Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn
lều và chiếc ghe của mình nằm ở phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi.
Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt
quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa trưa, có thể cha đã uống rượu say
và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha không đi tìm. Khóc đã
đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết định buông trôi,
tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…
May sao, chúng nhớ đường về. Khi
nhìn thấy ánh đèn chong leo lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi
sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy
vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ
bên cạnh cây roi.
Sau này, đã tự học cách định hướng bằng bằng mặt
trời, bằng sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy
cười quá chừng. Mắc cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước
bước, lại bị lạc lần nữa, giữa ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất
chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đường nào nhưng chẳng thể
quay ra, có người đàn bà bưng rổ bánh quy lại, biểu nó ăn. Đói quá,
thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm được nó nhờ tiếng rên ư ử,
bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng
người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.
Những ngày
sau này, tôi một mình trở lại gò đất, nhưng chờ hoài không thấy ma hiện
ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc
nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết, sao
con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.
Rồi tôi ngồi quẹt tay lau
nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không
để cha thấy mình buồn, quyết không để cha bật ra cái câu “Chịu hết nổi
cái cảnh sống này rồi hả ? Chừng nào đi ?”.
Cha vẫn thường đánh chị
em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải,
chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ
vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng
này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay
vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền ?
Hay
tại tôi càng lớn càng giống má. Có bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc,
nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu “Má ơi!”.
Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì
liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ
hình hài này.
Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau này
chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ
vì là con của má, vậy thôi.
Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn
còn vui lắm, sau này, cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo,
chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai
đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác
cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền, vừa khỏi phải nhìn những đứa con
của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe thấy nhỏ, lại rộng vô cùng
tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm trôi qua, hai chị em
tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả
đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình
hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp
tục gọt đẻo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn
tuổi, sức mấy mà chết trôi.
Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn
nữa, chỉ một chút xao lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ
vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên
chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ
mất.
Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…
Tôi và
Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ
Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng
của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lổ
nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng
Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái
mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến
lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền
nhìn vết thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng
răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi
thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe
bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào,
thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán
xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng
tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời
cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa
chín tới.
Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa
mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở
trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất.
Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua
gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần
ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy
vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn nhớ...
Có lẽ vì cuộc
sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ có nhà để về, chúng tôi
thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ
với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen
chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này
làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại
hình bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở
lại, chúng tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay
không.